MrHo
Forum Admin
Posts: 1,545
|
Post by MrHo on Oct 15, 2013 13:01:28 GMT 7
Ba nhà kinh tế học nghiên cứu về định giá tài sản đoạt giải Nobel
Ba giáo sư người Mỹ là Eugene Fama (ĐH Chicago), Lars Hansen (ĐH Chicago) và Robert Shiller (ĐH Yale) đã trở thành những chủ nhân của giải Nobel Kinh tế năm 2013.
Hôm nay, 14/10, lúc 13h giờ địa phương (18h giờ VN), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã công bố Giải Sveriges Riksbank về khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel - một giải thưởng được coi như “Nobel Kinh tế” trong hệ thống trao giải Nobel hàng năm. Ba giáo sư người Mỹ là Eugene Fama (ĐH Chicago), Lars Hansen (ĐH Chicago) và Robert Shiller (ĐH Yale) đã trở thành những chủ nhân của giải Nobel Kinh tế năm 2013 với công trình nghiên cứu về định giá tài sản.
Thông báo vừa được đưa ra có đoạn: “Không có cách nào để có thể dự đoán giá cổ phiếu và trái phiếu trong một vài ngày hoặc một vài tuần. Tuy nhiên, có thể đoán trước được giá của các loại tài sản trong những thời kỳ dài hơn, ví dụ như trong 3 – 5 năm tới. Những điều này đã được phát hiện và phân tích bởi các nhà kinh tế học Eugene Fama, Lars Peter Hansen và Robert Shiller”.
Bắt đầu từ những năm 1960, Eugene Fama và một vài cộng sự đã chứng minh rằng rất khó để có thể dự báo giá cổ phiếu trong ngắn hạn. Đồng thời, các tin tức mới có thể được ngay lập tức được phản ánh trong giá cổ phiếu. Những phát hiện này không chỉ tạo nên ảnh hưởng sâu rộng đối với các nghiên cứu tiếp theo mà còn có thể thay đổi diễn biến thực sự trên thị trường. Sự nổi lên của các quỹ chỉ số trên TTCK trên toàn thế giới là một ví dụ sắc nét cho điều này.
Gần như không thể dự báo giá tài sản trong một vài ngày hoặc một vài tuần tiếp theo, liệu có phải càng khó hơn để dự báo mức giá trong một vài năm tới? Câu trả lời là không, như Robert Shiller đã phát hiện ra trong thời kỳ đầu những năm 1980. Shiller phát hiện ra rằng giá cổ phiếu biến động mạnh hơn rất nhiều so với cổ tức, và tỷ lệ giá/cổ tức có xu hướng giảm xuống khi ở mức cao và ngược lại. Quy luật này không chỉ đúng với cổ phiếu mà còn đúng với trái phiếu và các tài sản khác.
Một cách tiếp cận khác là xem xét phản ứng của các nhà đầu tư dựa trên lý trí đối với sự bất ổn của giá cả. Lợi suất cao trong tương lai được nhìn nhận là phần bù đắp cho việc nắm giữ các tài sản rủi ro trong những thời kỳ ẩn chứa nhiều rủi ro bất thường. Lars Peter Hansen đã phát triển phương pháp thống kê đặc biệt phù hợp với việc kiểm tra các học thuyết về định giá tài sản.
Ba nhà kinh tế học sẽ chia nhau giải thưởng trị giá 1,2 triệu USD. Các nhà khoa học sẽ được vinh danh tại buổi trao giải tổ chức tại Stockholm vào ngày 10/12 tới.
Giải thưởng Nobel sẽ giúp công trình của các nhà kinh tế học vượt ra ngoài giới nghiên cứu hàn lâm và tiến gần hơn đến công tác hoạch định chính sách.
Thu Hương Theo Trí Thức Trẻ/Business Insider
|
|
MrHo
Forum Admin
Posts: 1,545
|
Post by MrHo on Oct 31, 2013 22:36:51 GMT 7
Eugene Fama, Nobel kinh tế 2013 giải thích về dự báo thị trường và giả thuyết thị trường hiệu quả của mình
31/10/2013
Giáo sư Eugene F. Fama, 74 tuổi, là một trong những người nhận giải thưởng Nobel năm nay trong lĩnh vực kinh tế, cùng với Lars Peter Hansen, giáo sư Đại học Chicago, và Robert J. Shiller, giáo sư đại học Yale.
Giáo sư Fama, một cựu sinh viên của Milton Friedman, Đại học Chicago đoạt giải Nobel, thường được biết đến như là cha đẻ của lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis - EMH). Nhưng một số ý kiến của ông đã gây ra nhiều ra tranh cãi. Ông đã bị giáo sư Shiller chỉ trích vì đã hạ thấp vai trò của tâm lý và cảm xúc của nhà đầu tư trên thị trường tài chính.
Giáo sư Fama không đề cập trực tiếp tới chính trị, khi nói rằng các quan điểm theo "chủ nghĩa tự do cực đoan" của ông là không đại diện cho một lợi ích chính trị nào, ông không dè dặt khi được hỏi về điều này.
Ông có thể giải thích kỹ hơn về công trình nghiên cứu và quan điểm của ông cho mọi người hiểu? Bắt đầu với lý thuyết thị trường hiệu quả - hoặc giả thuyết theo cách nói của ông. Định nghĩa của nó là gì?
Khái niệm chung khá dễ hiểu. Giá cả phản ánh tất cả các thông tin thị trường có sẵn. Phần khó khăn chính là việc kiểm tra giả thuyết, tuy vậy bản thân giả thuyết đó là khá đơn giản.
Nói như vậy thì giả thuyết này có vẻ như là một cái nhìn sâu hơn về vấn đề mà mọi người đã biết. Nhưng liệu đây thực sự có phải là một giả thuyết mới?
Bạn nói đúng, tôi không phát minh ra ý tưởng. Chắc chắn là không . Tôi chỉ là người đặt ra thuật ngữ "thị trường hiệu quả" và "tính hiệu quả của thị trường." Bạn có thể tìm thấy các thuật ngữ này trong một bài báo tôi đã viết vào năm 1965. Nhưng đó chỉ là bài báo thôi.
Điều thực sự quan trọng hơn là tôi đã chỉ ra rằng chúng ta không thể kiểm tra giả thuyết mà không thể không xây dựng được một "mô hình thị trường cân bằng".
Điều đó có nghĩa là gì?
Đơn giản chỉ là chúng ta cần biết thị trường phải làm gì để định giá. Cụ thể phải biết làm thể nào để đo lường được mức độ rủi ro. Tiếp đó, phải thấy các mối quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng trên tài sản và rủi ro của tài sản đó. Đây là vấn đề tổng hợp mà tôi gọi là "vấn đề giả thuyết chung." Phải kiểm tra các yếu tố này cùng một lúc. Việc kiểm tra này đòi hỏi rất nhiều kỹ thuật.
Ý tưởng cho rằng giá cả thị trường trong khoảng thời gian ngắn là không thể đoán được. Một số phát hiện của nghiên cứu này cho thấy rất khó có thể dự đoán được toàn bộ thị trường chứng khoán, đây là luận điểm ủng hộ các quỹ đầu tư chi phí thấp ngược lại với quản trị năng động. Như vậy có đúng không?
Đúng, chính vậy.
Tuy vậy nghiên cứu của ông không đề cập nhiều đến vấn đề này. Khi nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy thị trường phức tạp hơn những gì mình nghĩ trước đó. Chúng ta nhìn vào lợi tức trái phiếu, và cho rằng có thể dự đoán được chỉ số này, phải không?
Đúng ! Shiller và tôi và rất nhiều người nghiên cứu về vấn đề này đã thấy hiện tượng tương tự xảy ra với giá cổ phiếu.
Ông đã tìm thấy một số yếu tố có thể giúp dự đoán giá cổ phiếu về mặt dài hạn?
Đúng vậy, ví dụ như là như là tỷ lệ cổ tức trên giá cổ phiếu. Khi tỷ lệ này cao, lãi cổ phiếu dự kiến có xu hướng cao, và khi nó thấp, lợi nhuận kỳ vọng có xu hướng giảm.
Sau đó, trong bài nghiên cứu của Ken French [một nhà kinh tế ở Dartmouth] và tôi, với cả trái phiếu và cổ phiếu , có một số biến có ảnh hưởng đến giá cả, tất cả biến này đều liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh doanh. Chúng tôi đi đến kết luận, điều này cho chúng ta biết rằng sự dao động của lợi nhuận kỳ vọng là hợp lý.
Richard Thaler, bạn của ông tại Đại học Chicago, và Bob Shiller, người đoạt giải Nobel cùng với ông, lại có quan điểm khác?
Cho rằng họ có ý kiến khác với tôi là chưa chính xác! Xu hướng dao động của lợi nhuận kỳ vọng - nếu nó có liên quan đến điều kiện kinh doanh - thì sự liên quan này có thể không lý giải được.
Vì vậy, theo ông điều này hợp lý hay hay chưa hợp lý?
Khi đó, chúng ta không thể tìm ra sự khác biệt giữa hành vi và những giải thích hợp lý .
Nghiên cứu của Shiller và Thaler về những hành vi tài chính giúp giải thích rất nhiều điều bất thường. Theo ông, đâu là sự khác biệt giữa hai quan điểm?
Theo tôi, cả tôi và Shiller hoặc Thaler về cơ bản đều đồng ý với quan điểm cho rằng - có sự dao động trong lợi nhuận kỳ vọng, giúp chúng ta có thể đưa ra một số dự đoán về lợi nhuận. Điểm bất đồng giữa chúng tôi là cách đánh giá hiện tượng này hợp lý hay không hợp lý. Và không có bất kỳ bằng chứng sẵn có nào cho phép giải thích hiện tượng đó một cách thuyết phục. Những nghiên cứu của Shiller và tôi đã làm sáng tỏ hành vi lợi nhuận. Cách diễn giải điều đó đã mở ra nhiều tranh luận.
Tôi nghĩ rằng tất cả các quan điểm đều cần phải được công bố đầy đủ, và đó cũng là lý do tại sao tôi rất vui mừng khi được nhận chung giải thưởng với Shiller .
Một sự tóm tắt tuyệt vời.
Tuy nhiên, tất cả các mô hình định giá tài sản vốn đều dựa trên khái niệm về hiệu quả của thị trường. Đây lại là một câu chuyện khác.
Tôi đã dành 40 năm để tiến hành thử nghiệm những mô hình này. Và kết quả của phần lớn các thử nghiệm hay còn được gọi là mô hình ba yếu tố Fama- French. Mô hình này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu học thuật và cả trong thực tế kinh doanh. Tôi cho rằng cơ sở lý thuyết của mô hình này là không vững chắc. Về cơ bản, chúng tôi phát hiện ra những xu hướng lợi nhuận này và mục đích của chúng tôi là cố gắng giải thích chúng.
Không giống như Shiller, ông cho rằng có một cơ sở hợp lý cho mọi hành vi chứng khoán. Theo ông ba yếu tố đó là gì?
Sự phân bổ lợi nhuận của thị trường được thể hiện qua lãi suất tín phiếu kho bạc là một trong ba yếu tố. Thứ hai là yếu tố chứng khoán nhỏ (small-stock factor) - sự khác biệt trong lợi nhuận của các cổ phiếu nhỏ và cổ phiếu lớn . Các yếu tố gia tăng giá trị, là sự khác biệt giữa danh mục đầu tư đa dạng các cổ phiếu có giá trị thấp hơn chỉ tiêu phân tích cơ bản (value stock) so với cổ phiếu tăng trưởng .
Nghiên cứu của ông đã đóng một vai quan trọng trong việc công ty tư vấn Dimensional Fund Advisors trở thành công ty quản lý tài sản lớn. Có phải ông tham gia công ty này từ khi mới thành lập?
Tôi đã là thành viên ban quản trị từ những ngày đầu thành lập công ty, và nghiên cứu của tôi được áp dụng vào rất nhiều sản phẩm.
Chuyển sang một số vấn đề gây tranh cãi khác. Bob Shiller đã được hội đồng Nobel trao giải với công trinh nghiên cứu về bong bóng tài sản. Theo ông những nguyên nhân nào gây ra cuộc khủng hoảng tài chính - bong bóng tài sản, hay bong bóng bất động sản - Ông sẽ cho tôi biết ông thậm chí không biết bong bóng là gì? Có đúng vậy không?
[cười] Đúng vậy! Hoàn toàn đúng!
Đã bao giờ ông trình bày tại Quốc hội hoặc tư vấn về chính sách cho các chính trị gia?
Không, tôi là người rất khó đoán trước. Tôi không đưa ra lời khuyên như thế. Tôi không tin rằng mọi người đều tin những lời tôi nói
Tại sao vậy?
Vâng, tôi là người theo chủ nghĩa tự do cực đoan, nhưng tôi nhận thấy chúng ta đang sống trong một nền dân chủ mà mọi người có thể có quan điểm của riêng mình và không có lý do gì để tranh luận về điều này.
Ông là một người đoạt giải Nobel và mọi người đang tò mò về quan điểm của ông. Ví dụ, bất cứ khi nào chúng tôi nói chuyện với ông cũng cảm thấy như được đọc lại cuốn "Đường về nô lệ" của Friedrich Hayek. Đối với ông, đây là một cuốn sách quan trọng phải không?
Đúng vậy, đó là một cuốn sách tuyệt vời. Tất nhiên, đó là một triết lý, không phải thực nghiệm. Hiểu một cách rộng hơn những gì Hayek nói là nếu chúng ta để cho chính phủ kiểm soát các hoạt động kinh tế thì có nghĩa là chúng ta đã từ bỏ tự do, và tôi nghĩ rằng đó là một quan điểm mà Milton Friedman đã giữ trong suốt cuộc đời mình.
Tôi cho rằng quan điểm của tôi gần với Milton hơn bất kỳ ai. Và Milton cũng là một con người nhiệt thành theo chủ nghĩa tự do.
Ông có đồng ý với những nguyên lý cơ bản của John Maynard Keynes, mà theo đó chính phủ cần phải chi tiêu nhiều hơn khắc phục những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế?
Tôi không nghĩ rằng có nhiều bằng chứng trong thực tế ủng hộ quan điểm này của những người theo trường phái Keynes về việc chi tiêu của chính phủ.
Mặc dù ủng hộ giảm bớt vai trò điều hành kinh tế của chính phủ, Hayek vẫn tin vào mạng lưới an sinh xã hội . Có đúng vậy không?
Đúng, ông ấy đã tin như vậy, và tôi có quan điểm tương tự. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần an sinh xã hội, và đại loại như vậy.
Và, tất nhiên, mọi người không hoàn toàn hiểu đầu tư là mạo hiểm tới mức nào. Đó là một trở ngại rất lớn cần phải vượt qua. Chúng ta không thực sự biết liệu thị trường chứng khoán có thể tạo ra lợi nhuận trong tương lai như mọi người mong đợi hay không. Theo số liệu thống kê, chúng ta không thể chắc chắn rằng điều đó sẽ xảy ra. Đó mới là rủi ro thực sự.
Ông có tin vào các quy định tài chính hay không?
Tất nhiên, tôi tin vào một số quy định. Chúng ta cần một sân chơi bình đẳng mà đôi khi chính phủ phải can thiệp. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta đã đi quá xa với đạo luật Dodd-Frank .
Trong cuộc khủng hoảng tài chính, ông có nghĩ rằng chính phủ nên giải cứu các ngân hàng lớn?
Tôi không nghĩ vậy. Nếu có thể thì tôi đã ủng hộ việc quốc hữu hóa các ngân hàng chứ không bảo lãnh.
Thật vậy chứ? Đó không phải là không được tự do lắm hay sao?
Đúng vậy, chúng ta đang nói về các giải pháp thực tế thay thế. Thật khó tin rằng trong một cuộc khủng hoảng tài chính như vậy, chính phủ lại không làm gì cả. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Chính phủ sẽ được yêu phải làm một điều gì đó để giải quyết khủng hoảng. Vì vậy, chúng ta có hai sự lựa chọn. Quốc hữu hóa hoặc hoặc giải cứu các ngân hàng. Việc giải cứu hoàn toàn không khuyến khích các ngân hàng; điều này chỉ khiến các ngân hàng chấp nhận rủi ro nhiều hơn bởi vì chúng sẽ được cứu trợ. Vì vậy tôi muốn quốc hữu hóa các ngân hàng, tái cơ cấu và sau đó tiến hành tư nhân hóa.
Có phải vì vậy mà ông ủng hộ quan điểm chính phủ không nên can thiệp?
Tôi cho rằng đó có thể là một trải nghiệm thú vị. Nhưng điều mà mọi người tranh luận là điều này sẽ có tác động tiêu cực và làm nảy sinh các vấn đề khó khăn lâu dài. Chúng tôi không biết rằng điều đó đúng hay không, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là lý thuyết bởi vì nó không phải là một thử nghiệm có thể thực hiện mãi được.
|
|
MrHo
Forum Admin
Posts: 1,545
|
Post by MrHo on Oct 31, 2013 22:39:48 GMT 7
Robert Shiller viết về Fama, người chia sẻ giải Nobel với mình
31/10/2013 (Gafin)
Rõ ràng là đọc những dòng viết những người khổng lồ viết về nhau bao giờ cũng là một điều thú vị.
Giải thưởng Nobel về Kinh tế đôi khi được trao cùng lúc cho các nhà kinh tế bất đồng ý kiến với nhau sâu sắc. Đáng chú ý, vào năm 1974, Ủy ban Nobel đã trao giải cho Gunnar Myrdal, đảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển, người ủng hộ nhà nước phúc lợi và Friedrich Hayek, một người bảo thủ và tin rằng vai trò của chính phủ nên được hạn chế tối đa.
Năm nay, giải thưởng được trao cho Eugene Fama và Lars Peter Hansen của Đại học Chicago và tôi (Robert J. Shiller), cho công trình nghiên cứu "phân tích thực nghiệm giá tài sản" (empirical analysis of asset prices) với quan điểm trái ngược nhau. Vì vậy, nhiều người đã hỏi tôi về điều phi lý hiển nhiên này và tôi nghĩ rằng điều đó cần phải thảo luận trực tiếp trong bài viết này.
----------------------------------
Giáo sư Fama là cha đẻ của lý thuyết hiệu quả thị trường hiện đại, cho rằng giá tài chính là sự tổng hợp hiệu quả của tất cả các thông tin sẵn có và theo đó thì giá cả vậy được gọi là hoàn hảo. Trái lại, tôi cho rằng lý thuyết này không có nhiều ý nghĩa và chỉ đúng trong một số trường hợp thông thường.
Lẽ dĩ nhiên là giá cả phản ánh thông tin có sẵn. Nhưng giá cả còn lâu mới đạt tới mức độ hoàn hảo. Các đồng nghiệp có cùng quan điểm, cựu học sinh và tôi muốn nhấn mạnh vai trò rất lớn của sai lầm do con người tạo ra trong thị trường, vấn đề này đã được đề cập rất nhiều trong các nghiên cứu hiện nay thường được gọi là hành vi tài chính.
Sự khác biệt giữa người thứ ba dành giải Nobel, giáo sư Hansen và tôi là không nhiều như vậy. Trên thực tế, ông được nhiều người biết đến vì đã phản bác mô hình hiệu quả thị trường, trong một bài báo nổi tiếng với Kenneth Singleton, tại trường Stanford.
Giáo sư Hansen đã phát triển một phương pháp gọi là "phương pháp moments tổng quát" (generalized method of moments), để thử nghiệm mô hình dự đoán hợp lý - các mô hình này bao gồm mô hình dựa vào tính hiệu quả của thị trường (từ nay gọi tắt là mô hình hiệu quả thị trường- ND) - và kết quả phương pháp này đã chứng minh rằng các mô hình hiệu quả thị trường không đúng. Mặc dù vậy ông vẫn tin tưởng phần nào vào thuyết kỳ vọng hợp lý và thị trường hiệu quả.
Trên thực tế, tôi không hoàn toàn phủ nhận thuyết hiệu quả thị trường. Tôi chỉ gọi đó là một nửa sự thật. Nếu lý thuyết không này đề cập gì nhiều hơn những gì đã nêu ở trên, một nhà đầu tư nghiệp dư bình thường khó có thể làm giàu nhanh chóng bằng cách giao dịch cổ phiếu tại thị trường chứng khoán chỉ bằng việc dựa trên các thông tin được công bố, thì lý thuyết trên là đúng tuyệt đối.
Cá nhân tôi tin vào điều này và khi đầu tư, tôi thường tránh việc giao dịch cổ phiếu quá nhiều và rất nghi ngờ về các lời khuyên về đầu tư.
Tuy nhiên nhiều người, đặc biệt là những người ủng hộ lý thuyết này nhiệt thành cho rằng lý thuyết này còn ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Một điều đáng chú ý là có luận điểm cho rằng các giao dịch thường xuyên tại các thị trường phản ánh sự khôn ngoan đã vượt quả cả sự hiểu biết của ngay cả những chuyên gia hàng đầu và với người bình thường thì việc áp dụng lý thuyết này hoàn toàn vô vọng cho dù họ có dành cả đời để chuẩn bị, nghiên cứu và dự đoán về giá. Dự đoán giá cả thị trường được coi như thể là điều tiên tri.
Quan điểm này ngày càng phổ biến đối với các chuyên gia kinh tế và tác động của nó rất nguy hiểm. Đây là một lý do căn bản của cuộc khủng hoảng kinh tế mà chúng tôi đã bị mắc kẹt trong trong 5 năm qua, vì nó đã khiến cho chính phủ Mỹ và các nước khác hài lòng với việc định giá sai tài sản, đòn bẩy phát triển trên thị trường tài chính và sự bất ổn của hệ thống kinh tế toàn cầu. Trên thực tế, thị trường không hoàn hảo và cần phải được điều tiết nhiều hơn nhiều so với lý thuyết của giáo sư Fama đã đề xuất.
Một điều thật thú vị là giáo sư Fama cũng là người cha tinh thần và cố vấn cao cấp của một công ty đầu tư dành được nhiều thành công trên thị trường. Công ty Dimensional Fund Advisors DFA đã gây ấn tượng rất mạnh cho các nhà đầu tư với hiệu quả kinh doanh của mình khi các tài sản mà công ty này quản lý đã tăng lên đến 296 tỷ USD ngày 31/8.
Vậy tại sao DFA lại thành công đến như vậy với lý thuyết thị trường hiệu quả của giáo sư Fama?
Trên trang web của DFA đề cập tới "yếu tố" (dimension) đầu tư, cũng là một từ trong tên của công ty. Đứng đầu trong danh sách các “yếu tố” là "khối lượng" (tiền lãi cổ phiếu của các công ty nhỏ có xu hướng tốt hơn) và “giá trị" (cổ phiếu giá thấp thường có lợi nhuận tốt hơn là tốt). Thật vậy, nghiên cứu của giáo sư Fama với Kenneth French của Khoa kinh tế Tuk thuộc trường đại học Dartmouth đã cho thấy rằng trong quá khứ, các yếu tố này có thể được sử dụng để mang lại lợi nhuận cao hơn cho các nhà đầu tư . Hiện tại, đa phần chúng ta đã quen với việc coi những bất thường về “khối lượng” và “giá trị”này là sự thiếu hiệu quả của thị trường, hoặc lỗi của nhà đầu tư. Điều này đặc biệt đúng đối với “giá trị”. Chúng ta có thể sẽ không nghĩ rằng một số nhà đầu tư quá lạc quan đôi khi khiến cổ phiếu được định giá quá cao và chúng ta nên tránh xa họ? Sai lầm và không hiệu quả trong việc định giá tạo ra cổ phiếu có giá thị trường thấp hơn so với chỉ tiêu phân tích cơ bản (value stocks). DFA và giáo sư Fama, sử dụng cách nói khác nhau, khi đề cập đến phí thưởng rủi ro (risk premia).
Giáo sư Fama đã tránh đề cập tới các lý thuyết mô tả phí thưởng rủi ro thậm chí phản ánh hành vi không hợp lý, và tôi nghĩ rằng ông ta đã sai. Tuy nhiên, ông đưa đửa ra một kết luận về phương pháp đầu tư, ít nhất theo một số nguyên tắc cơ bản, có phần nào đó giống với lý thuyết của tôi.
Tôi thậm chí có thể khuyến cáo mọi người đang có ý định xem xét đầu tư vào DFA.
Tuy nhiên, tôi không khuyến nghị các cơ quan quản lý tiền tệ và tài chính áp dụng lý thuyết của giáo sư Fama để ổn định nền kinh tế. Ông không tin vào sự tồn tại của bong bóng trước khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra, và theo học thuyết của ông, chính phủ sẽ để cho các ngân hàng phá sản ở giai đoạn khủng hoảng bắt đầu.
Tuy nhiên, giống như Giáo sư Hansen, giáo sư Fama là một học giả hàng đầu, người đã tiến hành các nghiên cứu thận trọng về những chủ đề mà ông tập trung vào .
Chúng tôi không đồng ý với một loạt luận điểm quan trọng của của ông Fama, nhưng hoàn toàn không có gì sai lầm khi chúng tôi cùng nhau chia sẻ giải thưởng. Trên thực tế, tôi thấy hạnh phúc khi có thể chia sẻ giải thưởng với ông ấy, cho dù đôi khi cảm thấy chúng tôi tới từ những hành tinh khác nhau.
|
|
MrHo
Forum Admin
Posts: 1,545
|
Post by MrHo on Oct 31, 2013 22:46:33 GMT 7
Từ Giải Nobel kinh tế 2013 ngẫm đến TTCK Việt Nam: Cổ phiếu được định giá chính xác nhất trong thời gian từ 1-3 năm
Hiểu được giá trị tài sản sẽ rất cần thiết cho nhiều quyết định quan trọng không chỉ với nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp mà còn hầu hết mọi người trong cuộc sống hàng ngày. Việc lựa chọn giữa nắm giữ tiền mặt, tiền gửi ngân hàng hoặc đầu tư cổ phiếu tùy thuộc vào suy nghĩ mỗi người về rủi ro, lợi nhuận gắn liền với mỗi loại hình tiết kiệm và đầu tư kể trên.
Tuy nhiên, vấn đề đạt ra là làm sao xác định được chính xác nhất giá trị tài sản, cổ phiếu, trái phiếu và khoảng thời gian nào thì việc dự báo giá trị đạt được kết quả cao nhất là câu hỏi đặt với nhiều nhà kinh tế và chuyên gia phân tích tài chính có kinh nghiệm. Kết quả chứng minh bằng thực nghiệm được công bố mới đây của ba giáo sư người Mỹ: Eugene Fama, Lars Peter Hansen và Robert Shiller với công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể dự báo được chính xác giá trị cổ phiếu, trái phiếu trong ngắn hạn (vài ngày đến vài tuần) nhưng điều này có thể thực hiện được trong khoảng thời gian 3 đến 5 năm.
Như vậy, điều mà có thể sử dụng từ kết quả nghiên cứu thực tiễn này phù hợp với quan điểm đầu tư cổ phiếu và xác định giá cổ phiếu trong trung và dài hạn. Mỗi cổ phiếu chỉ có thể được định giá và đầu tư hiệu quả nhất là trong khung cảnh thời gian phù hợp với môi trường đầu tư của Việt Nam từ 1 – 3 năm.
Nhớ lại thời kỳ hoàng kim của thị trường chứng khoán Việt Nam 2006 – 2007, cổ phiếu tăng ồ ạt. Khi ấy, người ta không cần khái niệm định giá vì như bạn tôi – một người “chơi chứng” từ năm 2004 nói: “định giá xong thì chả còn cơ hội mà mua nữa”. Người ta tranh cướp mua cổ phiếu mà chẳng cần hiểu đó là công ty gì, làm ngành nghề gì, chỉ cần nó có 3 chứ cái và niêm yết. Thế là đủ.
Cái thời kỳ “bát nháo” ấy cũng phải nhanh chóng kết thúc vào năm 2008 nhường chỗ cho 1 chu kỳ có thể nói là “cướp đi tất cả” của nhiều nhà đầu tư say men chiến thắng trước đó. Không có dự báo, không có định giá, thị trường giảm sàn hàng loạt, trắng bảng bên mua. Thậm chí sau 1 tuần giảm sàn liên tiếp, dự báo thị trường sẽ tăng trở lại đôi chút trong tuần sau đó cũng chẳng đúng, bởi thực tế, nhiều cổ phiếu giảm sàn cả tháng.
Trong quá khứ, tại một đất nước phát triển bậc nhất thế giới là Mỹ, Giáo sư Eugen Fama (Đại học Chicago) và đồng nghiệp (1969) đã chỉ ra rằng giá cổ phiếu phản ứng rất nhanh với những tin tức mới, nhưng việc dự báo giá trị cổ phiếu trong ngắn hạn (vài ngày hoặc vài tuần) là dường như không thể. Có vẻ không nhiều nhà đầu tư Việt Nam để ý đến nghiên cứu này.
Sau thời kỳ mất mát, nhà đầu tư có thêm nhiều kinh nghiệm “đau thương”, sự cẩn trọng cũng theo đó tăng lên và việc nghiên cứu, dự báo hay định giá cổ phiếu được nhìn nhận nghiêm túc hơn. Nhưng đợt phục hồi của thị trường chứng khoán năm 2009 lại làm người ta chẳng còn nhớ nhiều đến bài học mất mát trước đó. Mua nhanh, mua ngay và mua đuổi tiếp diễn. Và rồi, khủng hoảng quay lại cuối 2009, thị trường lại lao dốc, hàng loạt nhà đầu tư lại “mất tất cả”.
Một thị trường non trẻ như chứng khoán Việt Nam đã phải trả giá.
Lần này thì không có chuyện coi thường và tham lam nữa. Những dự báo được đưa ra nghiêm túc hơn. Cổ phiếu của công ty có vị thế lớn trong ngành, có nền tảng cơ bản tốt được đặt lên hàng đầu, nhất là khi ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Nhưng Fama đã chỉ ra rằng không thể dự báo biến động giá cổ phiếu trong ngắn hạn, vậy trong dài hạn thì sao? Ít nhất cũng phải có một cơ sở gì đó cho việc dự báo để khôi phục niền tin chứ.
Và câu trả lời đến từ giáo sư R.Shiller (1981), người đã chỉ ra rằng mặc dù rất khó dự báo biến động giá cổ phiếu trong ngắn hạn, nhưng có thể dự báo chính xác hơn xu hướng của giá cổ phiếu trong khoảng thời gian vài năm (3 – 5 năm).
Đã có thể dự báo tốt hơn trong vài năm sau. Vậy dùng phương pháp nào xác định giá trị tương lai chính xác? CCAPM (1970) được phát triển bởi các nhà khoa học Merton, Lucas và Breeden, đánh giá mối tương quan giữa biến động giá trị tài sản và rủi ro (dựa trên những kết quả của mô hình CAPM được thực hiện bởi Willam Sharpe) là mô hình được nhắc đến nhiều.
Tuy nhiên, năm 1982, Lars Peter Hansen đã giới thiệu mô hình thống kê mới có tên gọi Generalized Method of Moments (GMM) nhằm kiểm nghiệm lại tính xác thực của CCAPM và đi đến kết luận mô hình CCAPM không thể giải thích tốt cho sự biến động của lợi nhuận đầu tư cổ phiếu. Để có sự đánh giá tốt hơn về dự báo lợi nhuận, Fama và Kenneth French “nâng cấp” mô hình khi thêm vào hai nhân tố mới: quy mô công ty và tỷ số giá trị sổ sách công ty so với giá trị thị trường (3-Factor Model).
Như vậy, nhà đầu tư có thể dựa vào nghiên cứu đã kéo dài hàng chục năm của Eugene Fama, Lars Peter Hansen và Robert Shiller để lựa chọn phương thức xác định giá trị tài sản và dự báo biến động giá trong tương lai
Những kết quả nghiên cứu của Fama, Hansen, Shiller có thể chưa nhận được sự đồng thuận cao về việc lý giải một số kết quả, tuy nhiên, không thể phủ nhận những đóng góp to lớn đối với lý thuyết và ứng dụng trong việc định giá cổ phiếu và đầu tư cổ phiếu hiệu quả trên thị trường chứng khoán:
(i) Giá cổ phiếu phản ứng rất nhanh và nhạy với những thông tin ảnh hưởng tới dòng tiền trong tương lai. Tuy nhiên, việc dự báo giá cổ phiếu trong ngắn hạn là không thể hoặc không chính xác. Đây là điều mà các chuyên gia phân tích tài chính đều gặp phải khi định giá cổ phiếu một doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Trong ngắn hạn, giá cổ phiếu đôi lúc tăng giảm thái quá không phản ánh đúng giá trị thực của cổ phiếu và nhà đầu tư cần nhiều thời gian hơn để xác định giá trị thật ở mức độ cân bằng và ở những thời điểm khách quan.
(ii) Trong trung và dài hạn, việc dự đoán giá cổ phiếu là hoàn toàn có cơ sở với độ giải thích cao hơn. Theo đó, lợi nhuận kỳ vọng từ đầu tư cổ phiếu tại thời điểm “tốt” (chu kỳ kinh tế đạt đỉnh, những chỉ báo liên quan đến định giá như tỷ số giá cổ phiếu/cổ tức cao) có xu hướng thấp hơn lợi nhuận kỳ vọng tại thời điểm “xấu”. Việc dự báo lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai được áp dụng với nhiều loại tài sản bên cạnh cổ phiếu và trái phiếu. Điều này hoàn toàn đúng đắn và phụ hợp với phong cách đầu tư giá trị trong trung và dài hạn. Trong ngắn hạn, nhà đầu tư luôn gặp rủi ro với biến động mạnh giá cổ phiếu và cơ may đầu tư đúng cổ phiếu, đúng thời điểm lại phụ thuộc nhiều tới yếu tố tâm lý và thời điểm đầu tư.
(iii) Những nhân tố mới: quy mô công ty và tỷ lệ giữa giá trị sổ sách so với giá trị thị trường góp phần dự báo lợi nhuận tương lai dựa trên nền tảng mô hình CAPM vốn chỉ sử dụng duy nhất hệ số beta để xác định giá trị tài sản. Để có thể đầu tư hiệu quả, nhà đầu tư cần xác định được giá trị sổ sách thực tế của doanh nghiệp và đánh giá xem giá trị này so với thị giá hiện tại của cổ phiếu có biên độ lớn không. Khoảng chênh lệch dương này càng lớn thì việc đầu tư cổ phiếu càng an toàn. Trong giai đoạn thị trường hiện tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có nhiều cổ phiếu có giá trị sổ sách lớn hơn nhiều so với thị giá cổ phiếu.
Đặng Trần Hải Đăng Trưởng nhóm Nghiên cứu, CTCK Maritime Bank (MSBS)
|
|